Khác với bánh chưng truyền thống, bánh chưng của một bộ phận người Tày ở Bắc Kạn chỉ xuất hiện vào đúng dịp rằm tháng 7 với phần nhân lạ miệng làm từ cá chép đồng, luộc trong nhiều giờ để bánh chín mềm nhừ, dậy mùi thơm nức mũi.
Ở Bắc Kạn, ngoài những đặc sản nổi tiếng như tôm chua Ba Bể, bánh coóc mò, xôi đăm đeng, ra sắng (rau ngót rừng), miến dong Na Rì, thịt lợn gác bếp,… còn có một món ngon khác khiến ai lần đầu nghe tên cũng không khỏi ngạc nhiên. Đó chính là món bánh chưng nhân cá chép.
Đúng như tên gọi, bà con dân tộc Tày ở Bắc Kạn đã sáng tạo món bánh cổ truyền của người Việt bằng phần nhân lạ miệng được làm từ nguyên liệu là cá chép đồng.
Theo người dân địa phương, không ai rõ món bánh chưng nhân cá chép có từ khi nào, chỉ biết rằng, cứ vào dịp tháng 7 âm lịch hàng năm, người dân địa phương lại làm món bánh này để dâng lên thờ cúng tổ tiên.
Thu Huyền (SN 1996, người dân tộc Tày, hiện sống ở huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn) cho biết, món bánh chưng nhân cá chép (người địa phương còn gọi là pẻng ho) hiện chưa được nhiều người biết đến. Ở Bắc Kạn, chủ yếu người Tày tại huyện Na Rì và Ba Bể mới làm món bánh này.
Và tùy theo thói quen, văn hóa của từng địa phương mà cách làm bánh cũng có sự khác nhau, như nơi dùng lá gừng, nơi khác lại dùng rau răm để khử mùi tanh của cá khi làm nhân bánh.
Được biết, nguyên liệu chính để làm món bánh này gồm gạo nếp nương, thịt mỡ, cá chép đồng, thêm rau răm hoặc lá gừng và một số gia vị khác.
Ngoài gạo nếp nương được tuyển chọn kỹ lưỡng, người bản địa sẽ sử dụng cá chép được nuôi thả trong ruộng lúa. Ở đây, khoảng từ tháng 4, tháng 5 âm lịch, người dân khi trồng lúa sẽ thả luôn cá chép đồng vào ruộng. Ruộng không bón phân hay phun thuốc để đảm bảo sạch.
Loại cá này có kích thước khá nhỏ, chỉ bằng hai ngón tay nhưng được nuôi thả tự nhiên nên có vị thơm ngon đặc trưng, khi nấu sẽ mềm nhừ, ăn lạ miệng.
Cách rằm tháng 7 độ vài ngày, người ta bắt đầu thu hoạch cá. lùa cá chạy vào cái hủng ở cuối ruộng rồi bắt lấy. Những con chép ban đầu chỉ nhỏ bằng đầu tăm, sau vài tháng đã tăng kích thước, to chừng 2-3 đầu ngón tay. Để cá sạch, bà con địa phương còn cho cá vào giỏ, treo ở giữa dòng suối từ 3 đến 4 ngày. Khi mang về nhà, cá trắng tinh, sạch sẽ.
Cá sau khi bắt về được đem làm sạch, sơ chế kỹ càng rồi trộn cùng lá gừng thái nhỏ và chút gia vị để khử mùi tanh và tăng độ đậm đà.
Sau khi chuẩn bị xong các nguyên liệu, người ta tin hành gói bánh. Cách gói không khác bánh chưng truyền thống nhưng chủ yếu được gói theo hình tròn, thuôn dài giống bánh tét. Bánh được luộc từ 12 đến 15 tiếng để đảm bảo phần nhân cá chép chín mềm nhừ xương, còn gạo dẻo, thơm nức mũi.
Khi bánh chín, người ta vớt bánh ra, treo lên cao cho ráo nước.
Với nhiều người, thoạt nghe tên đã tò mò không biết món bánh chưng cá chép có hương vị ra sao. Thậm chí có người còn dè chừng, nghi ngờ sự kết hợp giữa món bánh cổ truyền với phần nhân lạ lẫm.
Tuy nhiên, nếu có cơ hội thưởng thức, thực khách sẽ dễ dàng bị món bánh độc đáo này chinh phục bởi mùi thơm hòa quyện từ thịt mỡ với lá gừng, làm lấn át hết vị tanh của cá. Phần nhân cá chép cũng mềm nhừ, béo ngậy, khi ăn không sợ bị hóc xương.
Món bánh chưng nhân cá chép được nhận xét khá kén người ăn nhưng nếu ăn quen sẽ thấy thích thú bởi hương vị khác biệt, khó tìm thấy ở bất cứ đâu.
Theo Thu Huyền, vì món bánh này chưa phổ biến, gần như chỉ có ở 2 huyện Na Rì và Ba Bể ở Bắc Kạn nên ít được du khách biết tới. Và mỗi năm, người Tày ở đây chỉ làm bánh vào rằm tháng 7 nên nếu thực khách muốn thưởng thức bánh chưng nhân cá chép thì phải đặt trước mới có.
Cô gái người dân tộc Tày cũng tiết lộ, vào ngày Tết cổ truyền, bà con địa phương vẫn gói bánh chưng nhân đậu, thịt như nhiều nơi khác. Ngoài ra còn có bánh chưng nhân lạc đỏ khá lạ miệng và dễ ăn.
Theo Phan Đậu (Vietnamnet)